NS Cao Văn Lý
– Dân ca là số mệnh của tôi
Thứ Năm, 06/12/2012, 06:14 (GMT+7)
Linh Đoan
Người sáng
tác... dân ca
Rất nhiều bạn trẻ bất ngờ khi nghe thạc sĩ
Huỳnh Khải - trưởng khoa âm nhạc dân tộc (Nhạc viện TP.HCM) - giới thiệu nhạc
sĩ Cao Văn Lý là tác giả của Lý qua cầu, Lý
trăng soi...
Những lời giới thiệu này được đưa ra trong buổi nói
chuyện chuyên đề Dân ca Nam bộ vào ngày 27-11 tại Bảo tàng TP.HCM. Những bài lý
mà lâu nay nhiều người vẫn lầm tưởng là có sẵn trong kho tàng dân ca Nam bộ!
Bất ngờ hơn khi được biết số lượng các bài lý mà ông
sáng tác lên đến hơn 20 bài, trong đó rất nhiều bài hết sức quen thuộc như: Lý Mỹ Hưng, Lý Tư Phùng, Lý bông trang, Lý chim
xanh...
Viết lý từ
những dòng nhật ký
Nhạc sĩ Cao Văn Lý (tên thật là Phạm Lý) sinh ra ở
mảnh đất Ðồng Tháp Mười. Ông thường tự trào: “Ba mẹ tôi ai cũng đẹp, chơi đờn
ca tài tử nức tiếng chứ không xấu xí như tôi!”.
Ba mất năm ông lên 5, có sẵn máu mê văn nghệ, lại
được bạn bè của ba cưu mang đưa vào các đoàn văn công nên năm 16, 17 tuổi ông
ra Bắc học Trường Âm nhạc VN. Chỉ trong vòng một năm, ông được chọn sang Liên
Xô học lý luận âm nhạc, chỉ huy dàn nhạc.
Gần mười năm sau ông trở về nước, học thêm sáng tác
và trở thành một trong những giảng viên đầu tiên của Nhạc viện TP.HCM.
Lý qua cầu là một trong những bài lý đầu
tiên ông sáng tác. Trước ngày tập kết ra Bắc, ông bị bệnh và có cô gái ngày
ngày âm thầm chăm sóc, khi đem trái chuối luộc, lúc ly nước mía, lúc là gói
xôi. Ông bảo lúc đó còn nhỏ nên không nghĩ đến chuyện yêu đương.
Sau ngày giải phóng, ông quay lại
tỉnh nhà, cũng đã hơn 20 năm, tình cờ gặp lại người quen cho biết cô gái ấy vẫn
chờ đợi, trông tin. Quá bất ngờ và xúc động, ông đã “lén” đi tìm cô gái (vì lúc
này ông đã có gia đình), chỉ mong muốn được gặp để cảm ơn tấm chân tình. Nhưng
tìm mãi không được.
Một lần, bất chợt thấy dáng một
phụ nữ bước qua cầu như dáng người xưa..., ông buồn bã ghi lại tâm sự trong
nhật ký rồi cảm tác viết một bài ngắn Khi bóng em qua cầu. Lời ca đầy
nỗi nhớ thương: Dòng kinh in bóng em qua cầu. Dịu dàng trong dáng ai ngày
xưa ấy nay về đâu. Dẫu rằng cây da năm xưa trốc gốc trôi rồi...
Không ngờ khi bài hát được phát
trên đài phát thanh, ba tháng sau ông nghe người dân miền Tây hát rân bài này.
Họ còn đặt lời mới cho bài hát và gọi ngắn gọn là Lý qua cầu.
Ðến khoảng những năm 1975-1985, từ những dòng nhật
ký, nhiều sáng tác của ông đã ra đời mà sau này người ta yêu thích và cứ tự đặt
thành các điệu lý như: Chung một vầng trăng (Lý trăng soi), Ðẹp sao
khi mắt em cười (Lý đêm trăng), Em vẫn cùng anh (Lý chim xanh)...
Ông kể do ngưỡng mộ chị Sứ nên sau ngày giải phóng đã
tìm đến Hòn Ðất, đến mộ chị ngồi rất lâu. Ðêm về thao thức không ngủ được và
sau đó bài Lý Tư Phùng ra đời - nhưng nhiều nơi hay ghi nhầm là Lý
tương phùng.
Tư Phùng là tên cúng cơm của chị Sứ. Bài hát gốc có
những lời lẽ như một nén nhang tri ân người nữ anh hùng: Kiên Giang ơi biết
mấy ân tình! Thương cành xuân lòng hoài hận. Ðêm rừng trái tim hát mãi. Khúc Lý
Tư Phùng ngày xuân trong khói hương bay...
Số mệnh...
nhưng 2 năm nữa sợ chẳng còn sức!
Nhạc sĩ Cao Văn Lý tâm sự: “Có một nguyên lý là khi
mình nghiên cứu nhiều, nắm bắt được nguồn "gen" quý hiếm của âm nhạc
dân tộc thì có thể sáng tác những giai điệu rất hay. Những sáng tác của tôi lại
thường bắt nguồn từ những dòng nhật ký, rất chân tình và xuất phát từ trái tim
nên có lẽ vì vậy dễ đi đến trái tim của người khác.
Khi sáng tác tôi cũng hay tìm những gì đồng điệu giữa
mình và quần chúng, mường tượng xem khi mình hát câu này mọi người có thể hát
chung với mình không. Có lẽ nhờ vậy rất nhiều câu thơ khi tôi đưa giai điệu vào
người ta cứ tưởng là dân ca”.
Bây giờ khi trình bày bài lý của ông hầu như chẳng ai
giới thiệu tác giả. Ban đầu ông cũng buồn nhưng sau rồi quen. Có lần, nghe đâu
đó một bài lý của mình ông buột miệng bảo mọi người: “Bài này tôi sáng tác!”.
Chẳng ai nói gì nhưng sau đó nghe đâu họ đồn ông tự nhận vơ bài dân ca là của
mình!
Ông chậm rãi nói: “Trước đây người ta hay quan niệm
những tác phẩm trong âm nhạc dân gian là không có tác giả, nhưng bây giờ cần
quan niệm có thể có tác giả. Những sáng tác của tôi coi như đã đi vào dân gian,
quần chúng, trở thành dân ca thì họ có quyền sáng tạo theo những cách khác nhau
để trở nên hay hơn. Những bài lý tôi sáng tác bây giờ gần như chỉ còn 50% của
tôi, 50% còn lại là sự sáng tạo của quần chúng”.
Năm ngoái, tình cờ trong cuộc họp đồng hương, ông
nghe một vị lãnh đạo của Ðồng Tháp than có một đoàn Thụy Sĩ nghe tiếng giọng hò
Ðồng Tháp rất đặc sắc nên muốn đến để thu âm, ngặt nỗi không tìm đâu ra người
còn giữ được giọng hò.
Nhạc sĩ Cao Văn Lý được may mắn sinh ra và lớn lên
trong thời kỳ cực thịnh của giọng hò Ðồng Tháp. Nhưng vì một số lý do, 40-50
năm nay giọng hò này gần như vắng bóng. Ðau đáu về điều này, người nhạc sĩ 76
tuổi lại cùng vợ khăn gói xuống Ðồng Tháp cho một đề án phục hồi giọng hò của
tỉnh.
Ông đi khắp vùng, tìm lại những người hò hay nhất
ngày xưa, ghi âm, chỉnh sửa, biên tập. Sau đó là phổ biến và dạy thêm cho
khoảng 120 bạn trẻ cách sáng tác và dàn dựng. Từ lớp học này hiện có hơn 300
người trẻ đang học để phát triển điệu hò đặc sắc của Ðồng Tháp.
Từ Ðồng Tháp trở về, ông nhập viện cấp cứu luôn vì
tai bị điếc phải nằm cả tháng trời! Ông nói: “Có khi thấy mình như con thiêu
thân. Ai gọi đi thì tỉnh bơ, dạy không biết mệt, tới chừng về mới lăn ra bệnh.
Thôi cứ coi như nghiên cứu và phát triển âm nhạc dân gian là số mệnh của mình.
Cái gì làm được thì cứ làm, chứ hai năm nữa sợ chẳng còn sức!”.
Những
bài vọng cổ, tuồng cải lương sáng tác sau này sử dụng hầu hết là các bài lý do
nhạc sĩ Cao Văn Lý sáng tác. Nhưng rất ít người biết đó là sáng tác của ông,
không chỉ dân không chuyên mà cả một số tác giả chuyên nghiệp cũng không biết.
Những bài lý trong dân gian được truyền khẩu thường chân phương, mộc mạc, đậm
tính dân dã, còn các bài lý do ông Lý sáng tác có tính học thuật rất cao, tính
cấu trúc và tính sáng tác rất rõ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét